Wednesday, December 23, 2009

Ban Toi Thieu Uy Hue




Bạn tôi: Thiếu Úy Huệ
Friday, October 17, 2008 Bookmark and Share


Truyện của Phạm Hòa


Nó nằm trên giường đôi mắt mở to, bên cạnh hai người đàn ông già, cái giường bên phải của một người không biết nói tiếng Anh, chuyên đi qua lại dơ ngón tay cái lên và nói “very good, very good.” Có lẻ ông ta là người Armenian, vì khu vực Glendale phía Bắc của thành phố Los Angeles là khu vực tập trung của người di dân Armenian. Người đàn ông bên tay trái là người da trắng địa phương có đôi mắt kính cận dày cộm, nằm im lặng nhắm mắt bất động, có lẽ chẳng còn gì để nói.

Cậu nhỏ mặc bộ đồ y tá màu xanh nước biển người Phi bước vào phòng, đi thẳng vào chỗ treo cái đồng hồ trên tường điều chỉnh giờ, để lộ hai cùi chỏ xâm hình màn nhện màu xanh loại mực Tàu. Cậu quay lại nhìn người lạ ngồi cạnh nó và chào, khuôn mặt Á Châu hiền hậu. Nhưng trước khi vào đây làm, chắc cậu ta cũng một thời sóng gió ngang tàng trong các băng đảng một vùng nào đó của thành phố này. Cậu cứ lui hui tìm cách điều chỉnh giờ của cái đồng hồ treo tường. Thấy vậy, người đàn ông da trắng mở mắt ra với giọng nói trầm và ồ ề, lập đi lập lại nhiều lần “no battery, come on, the clock got no battery, can you see?” Hai ba người đàn ông bên hành lang dừng lại và cùng nói một lúc “that's right, no battery”. Trong khi đó, từ một phòng khác thật xa vang vọng tiếng của những người già khác la hét thật lớn như cố gắng trút hết nỗi ưu phiền của mình. Âm thanh vang dội qua cái hành lang dài nực mùi khai và hôi của một ngày nóng hơn trăm độ và tiếng la hét vẫn tiếp tục như chẳng ai màng để nghe. Thỉnh thoảng có một vài người ngồi trên xe lăn đẩy vào knob cửa trên tường để tìm cách di chuyển cái xe nặng nề. Một người đàn bà tóc bạc trắng lưng còm gần như song song với mặt đất di chuyển phía sau cái xe lăn.


Cậu y tá chẳng buồn trả lời, và đang tìm cách điều chỉnh giờ vì tối hôm qua đổi giờ vào nửa đêm, bây giờ đã bốn giờ chiều cậu ta mới đến. Cái đồng hồ này trên mặt kính còn có một cửa sổ nhỏ cho ngày và tháng. Ðiều chỉnh xong, nhìn đồng hồ, cậu y tá quay lại chào trước khi rời khỏi phòng.


“Mày nhớ hôm nay đúng ba tháng từ ngày mày bị stroke lần đầu tiên không?” Nó gật đầu và đôi mắt liên tưởng nhìn thật xa vời vợi. Từ đó đến nay, nó đi chuyển từ nhà thương này đến nhà thương khác, rồi bây giờ nó nằm ở cái run down Convalescent Hospital tồi tệ này. Hôm trước Noel, nó nhớ hôm đó ngày 11 Tháng Mười Hai, cơn stroke đầu tiên đã đến với thân thể nó. Từ Orange County, nó cố gắng lái xe về Monterey Park nơi nó ở, đoạn đường bình thường chỉ khoảng nửa giờ đồng hồ lái xe trên xa lộ, nhưng hôm nay thật khó khăn vô cùng. Toàn thân bên trái tê liệt, may còn cái chân phải để đạp ga và thắng cũng như cái tay phải quậy qua, quậy lại, thế mà nó cũng lết về đến nhà. Chực nhớ lại đứa em gái là y tá, nó bèn gọi đến, đầu dây bên kia trả lời “đi nhà thương gấp anh bị stroke rồi.” Vậy mà nó cũng lết cái xe lộc cộc, cũ nát đến El Monte Community Hospital, không biết họ có chữa trị gì không? Nó được xuất viện và người ta đề nghị nên đến USC Medical Center ở dưới Los để tiếp tục điều trị may ra nó còn sống, chứ cái nhà thương cộng đồng này nổi tiếng là Roach Hotel “Check in and never check out” như là one way ticket loại “đi tàu suốt.” Rồi nó lại liên tưởng đến...

Nó nhớ lại ngày xưa đi “nhảy toán” ít ra cũng có hy vọng trở về dù là mong manh, lần nhảy toán điều động và chứng kiến trận đánh bom cuối cùng của B52 trong vùng lưỡi câu của Cam Bốt. Hôm đó là ngày 27 Tháng Giêng năm 1973 nhưng vì Hoa Kỳ đi sau Việt Nam một ngày -Hoa Kỳ vẫn còn ngày 26- và Hiệp Ðịnh Ba Lê vẫn chưa có hiệu lực, các Pháo Ðài Bay B52 đả tập trung dành hết mọi phi vụ cho trân không kích cuối cùng này. Lúc đó, nó phục vụ ở Ðoàn Công Tác 68 Sở Công Tác thuộc Nha Kỹ Thuật. Khu vực Long Thành và Quân Ðoàn 3 cũng như Cam Bốt là vùng trách nhiệm của nó.

Toán nó vào vùng trước đó một ngày sau khi nhận dạng và xác nhận mục tiêu, tọa độ đã thuyết trình tại khu cấm trước ngày xâm nhập. Nó liên lạc và báo cáo với hai lần tư tưởng cho biết chi tiết tọa độ và sinh hoạt trong vùng. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, từng đợt và từng đợt B52 tới tấp vào mục tiêu, đâu đây nó còn nhớ văng vẳng bên tai trên ống liên hợp của máy PRC-25 zulu zulu zulu. Nó hối hả trả lời “nhận 5” roi nhét cái ống liên hợp trong cái balô của người truyền tin mang máy và cắm đầu chạy. Lúc bom nổ, nó nằm dưới đất chống tay theo kiểu hít đất, toàn thể mặt đất rung chuyển và chấn động dội vào khắp mọi nơi trên thân thể. Tai nó ù lên và hơi thở nén lại như vỡ tung lồng ngực theo từng đợt liên tục của trận oanh tạc. Toán của nó lồm cồm bò dậy và chạy thật nhanh ra khỏi vùng đánh bom mà nó đã chấm tọa độ báo cáo về hai lần tư tưởng của nó hôm qua. Cứ chạy rồi nằm, lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần. Khi toán nó được triệt xuất, mấy người đi đón toán chẳng còn nhận dạng ra tụi nó là ai cả. Từ xa, cả toán của nó như những bóng ma hiện về áo quần tả tơi trộn lẫn đất và bùn khô xám nghịt, miệng há hốc không nói được tiếng nào, không biết là nỗi mừng rỡ hay những tràng bom B52 đã xé nát lồng phổi và cuống họng của nó. Anh Ba cứ nhắc đến chuyến đánh bom B52 nầy mà anh chứng kiến từ lúc toán xâm nhập cho đến lúc triệt xuất. Anh Ba nói đâu phải đi một chuyến này thôi. Từ khi nó tình nguyện vào Biệt Kích cho đến nay, nó không còn nhớ bao nhiêu chuyến công tác nó đã đi qua, chỉ nhớ lờ mờ nó đi khóa 5/70 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, lúc đó nó được 23 tuổi, nhưng trước đó nó đã gia nhập quân đội không biết là năm nào, sau đảo chánh ông Diệm vài năm là nó đã đi lính rồi. Sau Ðệ Nhị Thế Chiến được hai năm thì thân mẫu nó hạ sinh ra nó trong Chợ Lớn. Gia đình cũng khá giả lắm, nhưng nó lại chọn kiếp trôi nổi làm trai thời chinh chiến. Nó nói đi lính nào cũng chết mà chết là hết, nhưng sống ngang tang tang bồng hồ thỉ cho thỏa chí trai. Rồi nó tình nguyện vào Biệt Kích thử lửa một lần cho biết.


Hồi đó, nó còn nhỏ lắm, nó nhỏ tuổi mà người cũng nhỏ con. Mấy thằng Mỹ trong toán thằng nào thằng nấy cao lêu khêu. Nó không là thông dịch viên nhưng nó nói gì mấy thằng Mỹ cũng hiểu hết. Nó rất thông hiểu lịch sử thế giới và nhất là lịch sử Việt Nam cũng như Trung Hoa cái thời của Tưởng Giới Thạch và trước đó là Mao Trạch Ðông. Nó kể chuyện chi tiết và dẫn chứng rõ ràng cũng như những dữ kiện lịch sử của Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa. Rồi hơn ba mươi năm đi qua, những gì đã xảy ra chung quanh cuộc sống của nó tại Hoa Kỳ cũng như những gì đã đi qua trong cuộc chiến vẫn đeo đuổi lấy nó. Ðôi mắt lim dim, nó liên tưởng đến một nơi nào xa lắm.


Hôm đó trưa ngày 29 Tháng Tư. Thằng bạn nó lui hui nhặt mấy cây súng bỏ ngổn ngang trong mấy dãy nhà tạm trú ở kho 18 bên Khánh Hội. Nó hỏi: “Sao mày về đây được hay vậy? Tao nghe mầy ở tù trên Tổng Tham Mưu phải không?” “Ừ, tao bị gửi lên nằm trên Ðại Ðội 1 Tổng Hành Dinh của Tổng Tham Mưu từ hôm Dinh Ðộc Lập bị mấy thằng phi công nằm vùng đánh bom đến nay.” “Cái lúc dầu sôi lửa bổng mà mày nằm trên đó thật phiêu lưu, ở đây anh em mình đi nhảy trên Lái Thêu Bình Dương cũng như chung quanh Biệt Khu Thủ Ðô, người ta tìm đường đi ra nước ngoài nhiều lắm...”


“Có, tao biết chớ, tao nằm kế phi trường Tân Sơn Nhất ngày nào cũng đến phi vụ C141 lên xuống thấy mà não ruột, cả tháng nay không có tin tức gia đình. Ông già tao ở Chi Khu Gò Vấp kế bên đây mà không sao có phương tiện liên lạc được. Hồi nẫy lúc vô cổng trại mấy đứa báo tin gia đình tao leo lên một chiếc tàu đánh cá đi vô Vũng Tàu rồi. Lúc ở trong Tổng Tham Mưu trưa nào tao cũng ra dưới tàng cây kế phòng giam, kể chuyện nhảy toán cho mấy chàng Quân Cảnh nghe, ngày nào cũng vậy, gần hết đề tài mà chẳng thấy ai vô lãnh tao về. Tối hôm qua, tụi nó pháo kích vô phi trường Tân Sơn Nhất và mấy trái pháo lạc qua Tổng Tham Mưu kế chỗ tao nằm. Hồi sáng nầy, Quân Cảnh 207 đến Tổng Hành Dinh lãnh tao ra bỏ ngoài cổng, may mà tao còn bọc “trái mini” trong túi mặt nạ, dí xe ôm về đến Bộ Chỉ Huy Nha trên trường đua Phú Thọ. Vậy mà tao phải chờ cả tiếng đồng hồ ông trung úy phát lương moi ngủ trưa dậy, tao cũng lãnh được nửa tháng lương, còn nửa tháng kia họ đóng tiền cơm trong tù. Tao nói bao nhiêu cũng được. Lúc đi ra kiếm cái thằng xe ôm trả tiền thì nó đã đi mất từ lúc nào. Nhìn qua trường đua tao thấy mấy anh em mình dưới Trung Tâm Huấn Luyện Yên Thế Long Thành về khui quân trang, quân dụng ở kho 50 trong nha, và đang cùng với đơn vị Biệt Ðộng Quân chất bao cát ngoài trường bãi cỏ trống giữa trường đua. Tao đón xe ôm về dưới Khu Quốc Tế, không ngờ gặp đông đủ anh em mình mấy đứa nhỏ trong xóm Ðổ Quang Ðẩu-Phạm Ngũ Lão bu lại mừng rỡ và xin đồ kỷ niệm. Nó nói anh đi kỳ này không biết bao giờ mới về. Tao cho tụi nó chục trái lựu đạn M26, rồi nhảy lên xe jeep về dưới này. Thôi mày xuống mấy chiếc tàu đổ bộ của quân vận đậu ngoài sông, người ta bảo tối nay sẻ đi Phú Quốc hoặc về dưới vùng bốn tử thủ. Tối hôm qua mà đi thì mày kẹt lại rồi, tao thấy mấy toán đi bốc mấy tay bự trên Sài Gòn tới khuya vẫn chưa về, và anh em mình nhiều toán còn kẹt lại ở Lái Thêu Bình Dương, cũng như một số đi bộ về đến chi khu Gò Vấp cũng chưa về kịp. Hồi sáng nầy có một toán về đến Ngã Ba Hàng Xanh, mấy người dân cứ tưởng là Việt Cọng về đến rồi. Lúc trưa, xe của mình rước Toán về đến Bến Bạch Ðằng xém bị Phòng Thủ của Hải Quân bắn. Nhờ tụi nó la lớn 'bạn, bạn, bạn,' và giơ bản đồ và panô lên bên kia mới mở hàng rào cho đi... Tối hôm đó, đoàn tàu di chuyển cả đêm, phía bên phải kho đạn thành Tuy Hạ bị nổ tung, cháy sáng cả một góc trời. Ðoàn tàu đi cả đêm mãi sáng hôm sau mới ra đến hải phận quốc tế, nó nhớ hết. Hai cái stroke cộng một cái heart attack, máu bầm đọng lại hơn sáu mươi phần trăm phía sau não bộ của nó, mà nó vẫn còn nhớ rõ ràng, tuy nó không nói được chỉ gật đầu. Và thỉnh thoảng nó cố gắng ngọng nghịu một vài câu nhưng trong tiềm thức nó tất cả những gì xảy ra nó nhớ rõ ràng và chi tiết lắm. Ðôi khi nó nhìn thật xa và cố nhớ lại tất cả như một đoạn phim trắng đen quay chậm.

Từ những ngày đầu di tản, nó đã phụ giúp công việc an ninh di chuyển người tỵ nạn tại Subic Bay, Philippines, Phi Trường Quân Sự tại đảo Guam, rồi đến đảo Wake nó cũng phụ giúp công việc an ninh tại phi trường. Ngày nào nó cũng mang về một bịch rác to lớn chứa đựng những đồ quý rồi mang cho lại những cụ già nào là ống quấy, trầu, cau, vôi, dầu nhị thiên đường, dầu cù là con cọp, dầu gió xanh Bác Sĩ Tín, đủ loại đồ lặt vặt trong cái bịch to tướng mà các quân nhân An Ninh Hoa Kỳ tịch thu tại phi trường. Họ đâu biết đây là những đồ quý giá nhất thời bấy giờ, nhất là những cái ống quấy của các cụ ăn trầu. Mỗi lần nó xách cái bịch nylon clear màu trắng về, bà con chạy ra, nó giống như những anh hùng vừa mới lập chiến công trở về. Ngày nào cũng vậy, thỉnh thoảng nó kéo một số anh em đi tuần tiễu quanh đảo Wake với quân cảnh Mỹ để bảo vệ an ninh cho đồng bào tỵ nạn, suốt mấy tháng ở bên đảo cho đến ngày đóng cửa. Sau về trại Pendleton của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ nó cũng đi làm trên Processing Center kiếm từng cái áo, cái quần, giầy dép cho anh em. Ngày nào cũng vậy, nó đi từ sáng sớm đến tối mới về, mỗi đêm nằm trên ghế bố lót hai ba cái mền mà cái lạnh nó xuyên thấu xương trên mấy dãy lều thiết kế dưới thung lũng trong căn cứ Huấn Luyện Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Cái lạnh về những ngày cuối Thu, nhưng có lẽ lạnh nhất vẫn là cái cô đơn của những kẻ vừa trải qua một cuộc chiến dài, nằm liên tưởng đến những tháng ngày tương lai vô định trên xứ lạ, và tiếp tục cho đến ngày ra trại. Tuy vậy, anh em độc thân vui tính lúc nào cũng chọc ghẹo nhau và vui cười. Sau cái ngày ra trại mỗi đứa một nơi, người tỵ nạn được định cư rải rác khắp nơi trên Hoa Kỳ. Không biết do cơ duyên nào đó tất cả lại tập trung tại Los Angeles, khu vực người Mễ và Ðại Hàn góc đường Vermont và đường Số Chín nầy, rồi anh em cũng quay quần bên nhau nơi cái thành phố định mệnh gió.


Hôm Thứ Hai, một tuần sau ngày bị stroke, nó nhờ một người bạn đưa vào USC, và từ đó đến nay hết nhà thương, đến trung tâm hồi lực rồi về lại nhà thương, qua trung tâm hồi lực rồi cuối cùng nó nằm tại cái bệnh viện tàn tạ dành cho những người già bệnh hoạn cuối đời nầy.

Còn ba ngày nữa đến Noel. Cả tháng nay êm ru không thấy nó gọi. Tôi đang đi sửa xe dưới Orange County. Trời cũng vừa tắt nắng. Bỗng điện thoại rung lên, bên kia đường dây như mật khẩu thường lệ “có gì lạ không?” nó nói theo cái kiểu nửa Việt, nửa Tàu của nó. “Tao cũng thường, mấy đứa nhỏ học ra trường đi kiếm việc làm trên Oxnard, bị bà già Mỹ đụng xe bung air bags, bể bình nước, xe kéo về Amarillo bỏ trên đó, tao đang đi kiếm cái xe chạy tạm, mầy khỏe không?” Nó trả lời thật rõ ràng: “Tao bị stroke nằm nhà thương hai tuần nay, cái điện thoại hết pin, hồi sáng nầy vợ chồng thằng Craig đến thăm, con vợ nó ngồi đây còn thằng chồng chạy xuống phố kiếm cho tao cái đồ charge pin, nhờ vậy tao mới gọi cho mày được”. “Mày đang ở nhà thương nào?” “Tao cũng không biết, nó nằm gần Los, khu của người Mễ Tây Cơ, gần freeway 710 qua khỏi Los”. “Mày có số điện thoại ở đó không?” “Tao không có. Mà hình như nó tên là Rancho Amigo gì đó”. “Thôi được, tối nay về nhà tao sẽ lên trên net kiếm, thế nào cũng tìm ra. Mày nhớ charge điện thoại, ngày mai tao lên sớm, tao sẽ gọi trước khi đi.” Và từ đó đến nay nó không còn nói được nữa.


Ngày hôm sau, còn hai ngày nữa thì đến Noel. Khi đến nhà thương, tôi thấy nó ngồi trên giường hớt hải phân trần ngọng nghịu. Mâm đồ ăn đặt trên một cái bàn nhỏ loại di chuyển trên giường dành cho bệnh nhân. Ðồ ăn vung vãi một nửa trên giường còn một nửa ở dưới đất, thức ăn được xoay nhuyễn dành cho những bệnh nhân sau khi stroke để tránh bị sặc khi nuốt. Trên tấm ra trải giường nhàu bốc lên mùi đồ ăn, mùi phân và nước tiểu lẫn lộn. Khuôn mặt nó thật hãi hùng, quầng mắt thâm sâu, đôi mắt đỏ và lờ đờ, râu lởm chởm khắp nơi trên khuôn mặt. Nó cố gắng phân trần và giải thích một điều gì đó... Tối hôm qua sau khi phổ biến hung tin và số điện thoại, anh em gọi thăm, nó đâu có nói chuyện được. Cái điện thoại cầm tay của nó rớt xuống giường mà không sao nó lấy lên được. Nó vẫn tiếp tục hớt hải và phân trần, một lúc sau mới kiếm ra cái điện thoại, trấn an và tìm cách nói chuyện với y tá nhà thương. Sau này mới biết tối hôm qua nó vừa bị một cơn stroke lần thứ hai.

Hôm nay là Christmas Eve. Nhân viên nhà thương le que có mấy người, chẳng thấy bác sĩ hoặc y tá, chỉ có mấy người phụ dọn dẹp cho bệnh nhân. Từ sáng đến giờ chẳng thấy nhân viên của nhà thương, chẳng thấy thuốc men. Trên giường có một miếng giấy với hàng chữ quen thuộc của một anh bên Lôi Hổ vừa đến thăm, chắc là anh nhận được nhắn tin trên e-mail tối hôm qua. Trên bàn, một con teddy bear của một người bạn đến thăm hôm qua, bình hoa màu xanh và bao giấy nhôm màu đỏ như nhắc nhở Noel đã đến. Buổi trưa, một bác sĩ người Á Ðông đến nhưng để thăm người bệnh nhân da màu giường kế bên, và ông cho biết bác sĩ của nó sau Noel mới làm việc trở lại. Người đem cơm đỡ nó ngồi dậy và tìm cách đút thức ăn cho nó, những đồ ăn đã được xoay nhuyễn, nhưng nó tìm cách phun ra, vì lưỡi nó không còn điều khiển để nuốt đồ ăn. Mâm đồ ăn còn nguyên vẹn được mang đi, nó cố gắng nói với những lời ngọng nghịu cho đến buổi chiều.

“Tao phải về, mày nằm đây nghỉ. Tối nay là Noel, mầy biết không? Thôi mày nằm nghỉ cho khỏe, ngày mai tao lên sớm.” Lúc tôi ra về, nó cố gắng tiếp tục phân trần, như muốn giữ tôi lại, cho đến tôi khi rời khỏi khu vực bệnh nhân.

Bên ngoài, trời bắt đầu lạnh. Ðèn Noel trên các nóc nhà cháy sáng. Tiếng nhạc rền dứt khoảng từ chiếc radio cũ kỹ qua cái loa rè rè vì đã rách. Bản nhạc “Ðêm Ðông Lạnh Lẽo” từ một đài phát thanh địa phương trỗi lên. Ðiếu thuốc tôi đốt nửa chừng rồi lại quăng đi. Mùi vị đắng nghét của một gói thuốc cũ lâu ngày hôi mốc như một quãng đời dang dở không trọn vẹn đã đi qua. Như cuộc đời của nó trong đêm Noel lạnh lẽo nầy.


Năm nay, chẳng có cây Noel, chẳng có quà vặt. Ba mươi mốt cái Noel trên xứ Mỹ nầy bao nhiêu cái Noel đã đi qua như cuộc đời nó nằm đây mà tất cả đều trống vắng, duy chỉ còn lại cái hạnh phúc của hơi thở, của sự sống và một ngày lại đi qua.


Sau Noel một ngày, nhà thương sinh hoạt thật tấp nập, kè đi qua người đi lại tất cả thật nhộn nhịp. Nó nằm trên giường với một miếng band-aid dán qua sống mũi, miệng của nó máu khô đọng lại từ tối qua. Người ta cho biết tìm thấy nó mặt úp nằm sõng sượt trên sàn nhà vào sáng sớm, không biết tối hôm qua nó muốn đi đâu? Tay chân bên trái của nó tê liệt do stroke lần đầu tiên. Stroke lần thứ hai đã tàn phá phần còn lại của thân thể nó. Không biết trong giấc mơ hiện về tối qua những gì đã xảy đến cho nó, không ai biết đến luôn cả chính nó. Viên bác sĩ của nó gọi bác sĩ chánh của nhà thương, và một vài bác sĩ thực tập đi cùng tất cà bác sĩ nhìn thấy nó đều lắc đầu. Và họ ra dấu hiệu chuyển gấp nó về USC để điều trị, tình trạng sức khỏe nó sa sút một cách trầm trọng.


Nó được đưa từ phòng hồi sinh thường, cho đến phòng hồi sinh loại nặng. Một tuần đã đi qua. Một đêm, điện thoại reng. Bác sĩ trực của nó muốn nói chuyện riêng với thân nhân. Người ta vô cho nó hai bịch máu, và không biết nó mất máu chỗ nào? Nhà thương thí USC là nơi quy tụ tất cả bác sĩ thực tập, cứ vài ngày là bác sĩ thay đổi. Và cuộc đời nó cũng vô định như những câu hỏi không bao giờ được trả lời.

Một hôm, trung tâm hồi lực thông báo người ta sẽ di chuyển nó đến một viện dưỡng lão nào đó trên vùng Los Angeles. Nó chẳng có bảo hiểm sức khỏe, chẳng nó Medical, tất cả phần chữa trị của nó tương đương với những kẻ vô gia cư hoặc tù nhân của thành phố nầy. Một hôm, tôi đến thăm và thấy hồ sơ bệnh nhân của nó trên bàn y tá màu đỏ chói. Tôi nhìn trên tường và thấy có miếng giấy cấm tiếp xúc với bệnh nhân, sợi dây xích hai chân của người bệnh vào song giường. Thỉnh thoảng, người cảnh sát vào phòng nhìn vào sợi dây xích rỗi đi ra. Nó chưa đầy sáu mươi, và cuộc đời gian truân và cái anh hùng tánh cũng theo đuổi suốt cuộc đời của nó...


Phạm Hòa

Tan Nien Nha Ky Thuat 2004


Ái Hữu Nha Kỹ Thuật họp mặt tân Xuân
Saturday, January 31, 2004 Bookmark and Share
Nguyên Huy


Chiều tối hôm Thứ Sáu cuối tuần qua, tại nhà hàng Emerauld Bay, trên hai trăm anh em cựu chiến binh của Nha Kỹ Thuật đã có một buổi họp mặt Tân Xuân để cùng nhau nối chặt tình thân chiến hữu ngày nào. Có mặt đông nhất là những anh em thuộc các chiến đoàn của Sở Công Tác và Sở Phòng Vệ Duyên Hải, những đơn vị trực tiếp chiến đấu của Nha Kỹ Thuật.


Cuộc họp mặt đã diễn ra trong một không khí thân mật với sự hiện diện của một số niên trưởng Sở Công Tác, Sở Tâm Lý Chiến, Sở Không Yểm, Hải Yểm. Trong phần văn nghệ giúp vui, nhiều tiết mục “cây nhà lá vườn” đã thể hiện được cái tinh thần của những người chiến sĩ đã chiến đấu trong âm thầm ngày nào. Và bản hợp ca Chiến Sĩ Vô Danh đã thể hiện lên cái tinh thần ấy nên anh em đã rất hăng say ca hát mỗi khi có dịp gặp mặt nhau.


Nha Kỹ Thuật, một danh xưng để che giấu những công tác bí mật về tình báo chiến lược của QLVNCH. Trong biên chế tổ chức Nha Kỹ Thuật được coi như một sư đoàn bộ binh. Nha Kỹ Thuật phụ trách nhiều công tác trong cuộc chiến Việt Nam. Về quân sự thì có những đơn vị phụ trách các toán ngắn hạn ở miền Nam thuộc Sở Liên Lạc với những chiến đoàn, dài hạn như các toán biệt kích nhảy Bắc, những toán Biệt Hải thẩm nhập dọc bờ biển miền Bắc thuộc Sở Công Tác Và Phòng Vệ Duyên Hải. Nhiệm vụ chính của các toán này là thu nhặt tin tức tình báo về tình hình xâm nhập của địch tại các biên giới Việt Mên Lào (ngắn hạn) và tình hình dân chúng, kho bãi, cơ sở cầu cống v.v.. tại miền Bắc (dài hạn) để báo về trung ương tùy theo tình hình mà từ đó những cuộc oanh tạc của B.52 hay Không Lực Việt Mỹ được thực hiện. Sự chiến đấu của các chiến sĩ này vì thế mà phải âm thầm để bảo toàn bí mật quốc phòng. Những chiến thắng của họ thường không được phổ biến. Do đó sự hy sinh của họ thường là lớn lao cũng không được công bố ngay cả trong phạm vi QLVNCH.


Nha Kỹ Thuật còn một sở Tâm Lý Chiến gồm ba phòng là Phòng Lừa Ðịch, Phòng Ấn Loát và hai đài Tiếng Nói Tự Do, Gươm Thiêng Ái Quốc. Phòng Lừa Ðịch có nhiệm vụ phá hoại hậu phương địch qua những liên lạc thư từ giữa hai miền Nam Bắc qua ngả Pháp Quốc và một số những thành viên của Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ðình Chiến theo quy định của Hiệp Ðịnh Genève1954. Phòng Ấn Loát chuyên in truyền đơn thả xuống miền Bắc cũng như các phần quà như khung xe đạp và Radio nhỏ cùng nhiều vải vóc, áo quần trẻ em... Hai đài phát thanh, một là hình thức Xám là Tiếng Nói Tự Do và Ðen là Gươm Thiêng Ái Quốc. Cả hai đài đều có đối tượng là dân chúng miền Bắc đang phải sống dưới chế độ cộng sản. Riêng Ðài Gươm Thiêng Ái Quốc lấy danh nghĩa là tiếng nói của các cán bộ cộng sản ly khai Ðảng và đã kết hợp với nhau thành Mặt Trận Gương Thiêng Ái Quốc, tượng trưng bằng Lưỡi Gươm Vàng của Vua Lê Lợi trên nền đỏ. Ðài Gươm Thiêng Ái Quốc có làn sóng ngắn phủ hầu hết các tỉnh miền Trung và một phần miền Bắc, thường loan các tin tức có thật của từng địa phương các tỉnh ven biển miền Trung, Bắc vĩ tuyến do các toán Biệt Hải xâm nhập thu lượm được hay tạm bắt các ngư phủ miền Bắc về khai thác tại đảo Phượng Hoàng ngoài khơi Ðà Nẵng. Nơi đây được tổ chức như một chiến khu của các cán bộ cộng sản ly khai. Chính vì sự tổ chức như vậy nên Ðài Gươm Thiêng Ái Quốc đã rất có uy tín với người dân các địa phương này, mặc dù dân chúng nghèo khổ ít ai có được cái đài. Nhưng nếu có một người nghe được thì lại rỉ tai nhau thông báo tin tức cho nhau biết.


Còn Ðài Xám Tiếng Nói Tự Do thì lại có một chương trình phản chiến phát thanh 24, có khi 28 tiếng một ngày. Những tiết mục như “Tâm tình với anh bộ đội” do ca sĩ hàng đầu Thái Thanh phụ trách hay “Tâm Tư Về Sáng” do nữ nghệ sĩ Bích Thủy phụ trách là những chương trình làm rã rời tinh thần chiến đấu của binh sĩ cộng sản miền Bắc khi phải sinh bắc tử nam. Những chương trình này đã khiến binh lính cộng sản về hàng trong các đợt chiêu hồi đến hơn hai trăm ngàn người. Một vị sĩ quan từng một thời coi Sở Tâm Lý Chiến kiêm Quản Ðốc Ðài Tiếng Nói Tự Do là Trung Tá Ðặng Xuân Thoại đã tuẫn tiết vào sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975 tại bệnh viện St. Paul trong khi một số quân cán chính Ðài TNTD thoát chạy được. Cái chết của vị trung tá Tâm Lý Chiến Nha Kỹ Thuật này đã làm vẻ vang cho những chiến sĩ của nha còn lại ở trong nước và bị cộng sản cầm tù trong các trại tập trung cải tạo. Chỉ tiếc rằng nay ở hải ngoại, sự tuẫn tiết của Trung Tá Ðặng Xuân Thoại lại ít được anh em Nha Kỹ Thuật nhắc tới trong những dịp họp mặt. (N.H.)

Sunday, August 30, 2009



Kenneth L. Worley (April 4, 1948 – August 12, 1968) was a United States Marine who was posthumously awarded the Medal of Honor for heroism in Vietnam. On August 12, 1968, Worley sacrificed his own life when he threw himself on a grenade to save the lives of several fellow Marines.

Biography

Worley was born on April 27, 1948, in Farmington, New Mexico, and completed the 8th grad at Farmington Elementary School in 1962. After being orphaned, he moved to Truth or Consequences, New Mexico, and attended Hot Spring High School there for two years.[3] He moved to Modesto, California, at age sixteen to live with an aunt. The conditions there were poor for Worley; he lived in a travel trailer with no running water or electricity. Instead of going to school, he worked as a truck driver, hauling loads of Christmas trees out of the mountains. After injuring his foot at work, he was taken in by Don and Rose Feyerman of Modesto. They treated him like a son and became his foster parents.

Worley enlisted in the United States Marine Corps in Fresno, California on June 14, 1967, he received recruit training with the 3rd Recruit Training Battalion, Recruit Training Regiment, Marine Corps Recruit Depot, San Diego, California. Upon completion of recruit training in August 1967, Pvt Worley was transferred to the Marine Corps Base, Camp Pendleton, California, and underwent individual combat training with Company R, 2nd Battalion, 2nd Infantry Training Regiment, and basic infantry training with the 2nd Infantry Training Regiment, completing the latter in October.

He was promoted to private first class on November 1, 1967 and, later that month, was ordered to the Republic of Vietnam. Assigned to the 3rd Battalion, 7th Marines, 1st Marine Division, he served consecutively as a rifleman with Company I, with Headquarters and Service Company, and with Company L. He was promoted to lance corporal on May 1, 1968. While serving as a machine gunner with Company L on August 12, 1968, he was killed in action, saving five fellow Marines by his actions.

Kenneth Worley is buried in Westminster Memorial Park, Westminster, California.

Medals and decorations

A complete list of his medals and decorations include: the Medal of Honor, the Purple Heart, the National Defense Service Medal, the Vietnam Service Medal with four bronze stars, and the Republic of Vietnam Campaign Medal. The Medal of Honor was presented posthumously to Worley's son and foster family, two years after he was killed.

Medal of Honor citation

The President of the United States in the name of Congress takes pride in presenting the MEDAL OF HONOR posthumously to

LANCE CORPORAL KENNETH L. WORLEY
UNITED STATES MARINE CORPS

for service as set forth in the following CITATION:

For conspicuous gallantry and intrepidity at the risk of his life above and beyond the call of duty while serving as a Machine Gunner with Company L, Third Battalion, Seventh Marines, First Marine Division in action against enemy forces in the Republic of Vietnam. After establishing a night ambush position in a house in the Bo Ban Hamlet of Quang Nam Province, security was set up and the remainder of the patrol members retired until their respective watch. During the early morning hours of 12 August 1968, the Marines were abruptly awakened by the platoon leader's warning that "Grenades" had landed in the house. Fully realizing the inevitable result of his actions, Lance Corporal Worley, in a valiant act of heroism instantly threw himself upon the grenade nearest him and his comrades, absorbing with his own body, the full and tremendous force of the explosion. Through his extraordinary initiative and inspiring valor in the face of almost certain death, he saved his comrades from serious injury and possible loss of life although five of his fellow Marines incurred minor wounds as the other grenades exploded. Lance Corporal Worley's gallant actions upheld the highest traditions of the Marine Corps and the United States Naval Service. He gallantly gave his life for his country.

RICHARD M. NIXON

Posthumous honors

Kenneth Worley's name is inscribed on the Vietnam Veterans Memorial ("The Wall"), on Panel 48 West, Line 01.

The "LCpl Kenneth L. Worley" Young Marine unit based in Bellflower, California, is named in honor of LCPL Worley.

Medal Of Honor








Người thanh niên mồ côi nằm yên nghỉ thầm lặng ở Westminster

WESTMINSTER, California - Trong 41 năm, người chiến binh được tưởng thưởng huy chương cao nhất Hoa Kỳ đã nằm yên nghỉ trong một mộ phần gần như vô danh, không một lời tưởng niệm. Cho đến khi một cựu chiến binh khác tình cờ biết chuyện, đã vận động thành phố Westminster và binh chủng thủy quân lục chiến làm một buổi lễ long trọng vinh danh người anh hùng của chiến cuộc Việt Nam.

Người lính không thân nhân với mộ phần trong nghĩa trang Westminster Memorial Park là cố Thượng Sĩ Kenneth Lee Worley. Anh đã thiệt mạng khi lấy thân mình nhảy đè lên một quả lựu đạn, cứu cả một nửa tiểu đội thoát chết.

Chính phủ Hoa Kỳ đã truy tặng huy chương Medal of Honor, Huy chương Danh dự, là huy chương cao nhất của quân đội Hoa Kỳ. Anh cũng được nhận huy chương Purple Heart, dành cho người bị thương trong chiến đấu.

Nhưng rồi chuyện của anh đã rơi vào quên lãng. Thi hài anh được đưa đến chôn tại Westminster vì quân đội không tìm ra thân nhân. Phải hơn bốn mươi năm sau, một người nghiên cứu sử nghiệp dư tình cờ nhắc đến anh khi nói chuyện với một cựu chiến binh lớn tuổi, người ta mới nhớ ra anh là ai.

Người nghe được chuyện Thượng Sĩ Worley là ông B.J. Savage, một cựu phó cảnh sát trưởng Westminster và cũng là một cựu chiến binh nhưng không tham chiến tại Việt Nam. Ông Savage đã vận động được thành phố Westminster tài trợ một buổi lễ vinh danh người anh hùng, và gắn một tấm bảng đồng tưởng niệm trong khuôn viên tòa thị chính.

Chiến sĩ mồ côi

Khi hy sinh, Thượng Sĩ Worley chỉ một thân một mình. Sinh ra và lớn lên tại Farmington, New Mexico, nhưng ngay cả thành phố nơi anh sinh ra cũng không có ai để biết đến hành động hy sinh anh hùng của anh. Phải tới ngày hôm nay, người ta mới biết và đang gây quỹ để làm bia tưởng niệm.

99701-medium_a1_thuy20quan20luc20chienÔng B.J. Savage lấy tay phủi cỏ khô trên mặt bia Thượng Sĩ Kenneth Lee Worley trong nghĩa trang Westminster Memorial Park. Ông Savage là người khởi động đặt một tấm bảng đồng tưởng niệm trong khuôn viên tòa thị chính Westminster. Lễ đặt tấm bảng sẽ diễn ra ngày 29 Tháng Tám. (Hình: Benjamin Vũ/Người Việt)

Ông Savage nói với Người Việt, “Anh ta mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ở với họ hàng xa, học tiểu học ở Farmington. Rồi đến trung học, anh học ở Truth Or Consequences, New Mexico.”

Ông ngừng lại và bật cười, “Tên thành phố như vậy đó, Truth Or Consequences.”

Ðến lúc đăng lính vào thủy quân lục chiến, Worley đã đăng lính ở Fresno. Khi đó, người thanh niên này đang sống với gia đình Feyerherm, một gia đình nuôi.

Một người em gái trong gia đình này viết về anh trên trang web American Valor:

“Kenny đến ở trong gia đình chúng tôi ở Modesto, California khi anh 17 tuổi. Anh sống với chúng tôi cho tới khi anh gia nhập thủy quân lục chiến. Anh là người anh của tôi theo tất cả các nghĩa của chữ đó và chúng tôi yêu anh hết sức,” bà Donel Swisher viết.

Hiện sống tại Escondido, bà Swisher dự định sẽ đến dự buổi lễ vinh danh người anh nuôi. Bà viết thêm, “Khi anh đến ở trong gia đình chúng tôi, tôi chỉ mới 13 tuổi và tôi dám khẳng định là khi quân đội bảo chúng tôi là anh được truy tặng Huy chương Danh dự, chúng tôi không ai ngạc nhiên. Anh là một người hùng từ ngày đầu tiên anh đến với chúng tôi.”

Thi hài không người nhận

Tuy Thượng Sĩ Worley từng ở với gia đình Feyerherm, nhưng theo luật pháp, một gia đình nuôi kiểu foster family không được xem là thân nhân như gia đình nuôi kiểu adoption. Vì vậy, khi thiệt mạng, anh được xem là người lính không thân nhân.

Không thân nhân, nên anh cũng không có chỗ chôn.

Cá nhân ông B.J. Savage cũng từng là thủy quân lục chiến, giải ngũ năm 1963. Ông làm cảnh sát Westminster trong 30 năm, lên đến chức phó cảnh sát trưởng cho tới khi về hưu. Năm nay 68 tuổi, ông nói:

“Mối liên hệ duy nhất giữa người anh hùng Worley và Westminster là ngôi mộ này đây. Mộ phần này là một miếng đất được tặng.”

Ông Savage kể: “Khi mất, anh không có thân nhân. Lúc đó, nghĩa trang này thuộc về gia đình McWhinney. Gia đình McWhinney đã hiến tặng phần đất này cho quân đội để chôn cất anh Worley.”

Ông kể vì sao ông tìm ra được ngôi mộ này: “Có một nhà nghiên cứu sử nghiệp dư ở Newport Beach. Ông ấy đang nghiên cứu đề tài khác thì tìm ra ngôi mộ này. Anh phải biết là ở nước Mỹ không có mấy người được trao huy chương Medal of Honor đâu. Nên tình cờ nói chuyện, ông ấy mới bảo tôi là trong nghĩa trang Westminster Memorial Park có một ngôi mộ của một người được Medal of Honor, tôi mới tìm hiểu thêm.”

Hy sinh vì đồng đội

Tìm được ngôi mộ Thượng Sĩ Worley, ông Savage bèn lên Internet tìm hiểu thêm về người này. Văn bản khi truy tặng Huy chương Danh dự cho Thượng Sĩ Worley viết về sự việc xảy ra ngày 12 Tháng Tám năm 1968 khi toán quân của ông Worley đóng chốt qua đêm trong một căn nhà ở xã “Bo Ban” tỉnh Quảng Nam. Văn bản viết tiếp:

“Vào mờ sáng, các chiến sĩ thủy quân lục chiến giật mình thức giấc khi trung đội trưởng lên tiếng báo động ‘lựu đạn’… Dù biết hậu quả của việc mình làm, Thượng Sĩ Worley, trong một hành động anh dũng cao độ, liền lập tức nhảy chồm lên trên quả lựu đạn gần đồng đội mình nhất, lấy thân mình chịu hết sức nổ cực lớn của trái lựu đạn.”

Worley hy sinh, cứu sống 5 người đồng đội đang ngủ trong cùng phòng. Huy chương Danh dự đã được truy tặng cho anh trong một buổi lễ tại Tòa Bạch Ốc năm 1970.

Một buổi lễ vinh danh

Một thân một mình, ông Savage gom góp tài liệu về người thượng sĩ anh hùng, viết một lá thư và gởi đến cho Hội Ðồng Thành Phố Westminster.

Ông Savage muốn có một buổi lễ đặt bảng tưởng niệm trong khuôn viên tòa thị chính, ngay chỗ cột cờ, nơi hiện đang có nhiều bảng tưởng niệm từ các cuộc chiến khác. Ông dự trù sẽ có mặt của dàn nhạc và đoàn cờ danh dự Sư Ðoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến từ Camp Pendleton, là sư đoàn nơi Thượng Sĩ Worley từng phục vụ. Nhưng có dàn nhạc, có đoàn cờ, là có chi phí. Chưa kể những phí tổn khác.

Ông ước tính chi phí cho một buổi lễ và một tấm bảng tưởng niệm là $7,000, và ông đến buổi họp hội đồng thành phố để xin tài trợ số tiền này. Trong buổi họp Tháng Tư 2009, hội đồng thành phố đã đồng loạt bỏ phiếu chấp thuận yêu cầu của ông, chuẩn chi $7,000.

Nghị Viên Tạ Ðức Trí nói với báo Người Việt, “Ðây là một điều rất tốt, thành phố nên làm. Ðây là một người đã tham chiến tại Việt Nam, thành phố được sự ủng hộ tuyệt đối của hội đồng thành phố để tưởng nhớ sự hy sinh này.”

Ðến ngày 12 Tháng Tám, ông Savage tính lại, xin được Sư Ðoàn 1 cho giảm bớt chi phí vận chuyển, xin được công ty làm bảng tưởng niệm giảm bớt giá thành.

Thấy tiết kiệm được vài ngàn, ông lại trở lại thành phố. Phát biểu trước hội đồng thành phố, ông nói “Bây giờ buổi lễ chỉ cần $5,000 thôi, xin chỉnh lại chi phí.” Hội đồng thành phố lại bỏ phiếu, lại đồng ý chuẩn chi bớt xuống còn $5,000.

Ông cho báo Người Việt biết, “Buổi lễ sẽ có Thẩm Phán Liên Bang David O. Carter, cũng là một cựu chiến binh Việt Nam; sẽ có Thiếu Tướng Richard Mills là sư đoàn trưởng Sư Ðoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến.”

“Qua chừng này năm, đã đến lúc anh Worley được nhận sự vinh danh xứng đáng.”

Nguồn : Vũ Quí Hạo Nhiên/Người Việt


Sinh Hoat Cong Dong